Kiểm tra miễn phíĐăng ký kiểm tra và tư vấn miễn phí

05 BƯỚC HỌC TIẾNG ANH HIỆU QUẢ – CHƯƠNG 9: NHÌN NHẬN NGỮ PHÁP Ở GÓC ĐỘ KHÁC


“[Bản dịch của cô giáo Minh Trang aroma]

Edwin Land đã có câu “ Sáng tạo là không sợ thất bại”.

Bạn đã bao giờ tự đặt câu hỏi tại sao chúng ta phải học ngữ pháp chưa? Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta học ngữ pháp? Các nhà ngôn ngữ học có đang phức tạp hóa vấn đề không? Tại sao chúng ta có thể nói tiếng mẹ đẻ thành thạo mà không cần ngữ pháp chuẩn.
Thực tế thì, nhiều người (trong đó có cả tôi) phải thừa nhận rằng chúng ta khó có thể phân biệt được các thuật ngữ của ngữ pháp, ví dụ trạng từ, bổ ngữ, tính từ, mạo từ xác định, mạo từ không xác định…cho đến khi chúng ta học ngữ pháp ở một ngôn ngữ mới. Câu hỏi đặt ra là “ chúng ta có thể nói ngoại ngữ mà không cần học ngữ pháp không?”

Ở chương này, tôi sẽ chỉ cho bạn những quan điểm mang tính thực tế hơn khi chúng ta học ngữ pháp. Tôi sẽ nói cho bạn cách tiếp cận hiệu quả và ứng dụng ngữ pháp giống như một công cụ chứ không phải rào sản trong việc học ngôn ngữ mới.

Đúng, ngữ pháp sẽ không gây cho bạn nhiều vấn đề. Khi nhiều người trên thế giới cải thiện khả năng ngôn ngữ của mình và khiến nó trở thành công cụ giao tiếp, họ nhận ra rằng “nói ít thôi nhưng truyền đạt nhiều vào”. Chúng ta biết rằng bằng, một chuỗi các âm thanh móc nối được thể hiện để diễn giả suy nghĩ của chúng ta nhờ đó chúng ta có thể hiểu được nhau. Và chuỗi các âm thanh đó được bộc lộ ra ngoài bằng “từ vựng” và “cụm từ”. Khi chúng ta muốn thể hiện nhiều hơn, chúng ta lại bổ sung thêm nhiều từ và cấu trúc câu hơn. Ngày nay, nhiều từ mới vẫn nảy sinh, ví dụ “blog”, “mạng xã hội”, truyền thông xã hội”….Tuy nhiên, để tránh việc từ điển của chúng ta ngày càng dày hơn, chúng ta vẫn thường cố gắng diễn giải các thuật ngữ đó mà không cần phát sinh ra thêm quá nhiều từ vưng. Từ đó, chúng ta sử dụng các phương pháp như: hoán đổi từ, lược bỏ vị trí từ ( ví dụ như trong các câu hỏi tiếng anh) ,bổ sung thêm “s” hoặc “es” vào một từ.) Các phương pháp này chính là một phần ngữ pháp mà chúng ta vẫn e ngại.

Thế đấy, ngữ pháp giúp chúng ta truyền đạt thông tin ở nhiều góc cạnh khác nhau hơn mà không phải sử dụng quá nhiều từ vựng và cấu trúc câu như đề cập ở trên.Để rồi từ đó, bạn bắt đầu nhìn ra rằng ngữ pháp có nhiều điểm tích cực,thì ngữ pháp đang đóng vai trò miêu tả mọi thứ thật tinh tế và rõ ràng. Ngữ pháp giúp chúng ta miêu tả tình huống và hành động cụ thể cả về mặt thời gian và không gian. Khi ngữ pháp giúp bạn làm được điều đó, bạn sẽ giúp người nghe hiểu mình sâu hơn.

Tất nhiên là tôi không có ý định giảng ngữ pháp cho bạn nhé, chúng ta có cả đống sách ngữ pháp ngoài hàng, với với vô vàn mục đích khác nhau. Tôi chỉ muốn chia sẻ với bạn rằng ngữ pháp là một người bạn đồng hành tốt, chứ không phải cái gì đó khó khăn đang thách thức bạn.

VẬY THÌ NGỮ PHÁP CÓ PHẢI LÀ ĐIỀU BẮT BUỘC KHI TÔI NÓI NGOẠI NGỮ.

Có rất nhiều tranh luận về vấn đề này. Một số nhà ngôn ngữ học đã nói rằng bạn có thể nói không cần ngữ pháp. Nhiều nhà ngôn ngữ học khác đã tranh luận rằng bạn cần vô thức nắm bắt ngữ pháp khi bạn học nói tiếng mẹ đẻ, mặc dù chúng ta không phải hiểu rõ các thuật ngữ ngữ pháp như tôi đã nói ở trên.

Cá nhân mà nói, tôi nghĩ rằng họ đúng. Có hai góc độ khi nhìn nhận về vấn đề này: Thứ nhất là học ngoại ngữ mà không cần một nguyên tắc ngữ pháp nào. Lúc này, người học sẽ học thuộc lòng nhiều từ mới hơn và họ không cần phải tuân thủ theo bất cứ nguyên tắc nào. Ví dụ, tôi nói tôi sẽ ứng dụng nó vào việc học tiếng anh và tôi học từ vựng DO (làm). Tôi sẽ phải nhớ một loạt các vấn đề như “ I do, we do, you do, he does, she does, it does, I did, we did, you did, he did, she did, it did…” .

Những nếu nhìn ở một góc độ khác thì thì ngữ pháp lại là một yêu cầu bắt buộc. Ví dụ tôi sẽ phải nhớ luật sau:

– I thì dành cho đại từ ngôi số 01
– We là đại từ số nhiều ngôi số 01
– You là đại từ số ít và số nhiều ngôi số 02
– He/ she/ it là đại từ số ít ngôi số 03
– They là đại từ số người ngôi số 03
– Động từ “DO” đang ở thời hiện tại và sẽ đi theo các luật sau:

Do thì dành cho I, We, và They
Does thì dành cho He , she, và it

Và nếu chúng ta cứ phải liên tục học ngữ pháp mà không theo một nguyên tắc gì cả, chúng ta buộc phải nhớ một lượng thông tin quá lớn vì chúng ta buộc phải học mọi thứ từ những yếu tố đơn lẻ nhất.

Thì giờ, học ngữ pháp theo nguyên tắc lại có thể giúp bạn giảm thiếu tối đa công việc nhập thông tin lớn. Đối với một số ngôn ngữ, nhiều người thậm chí phải “nén” các nguyên tắc ngữ pháp trong một vài trang. Đây là một trong những điểm thuận lợi lớn khi học ngữ pháp.

Tuy nhiên, học các nguyên tắc ngữ pháp không phải là không có bất lợi. Điều bất lợi đầu tiên là mấy nguyên tắc này chẳng dễ nhớ chút nào ( =)) ha ha).Chúng giống như những công thức toán học. Một số người vẫn phải kết nối các nguyên tắc đó để cấu thành nên những bài thơ hãy những bài nói vui để rồi “ cố mà nhớ”. Tôi đồng ý rằng sử dụng thơ để nhớ các phương pháp ngữ pháp có thể là một giải pháp tốt cho các bài kiểm tra ngữ pháp. Nhưng câu chuyện này không đơn giản chút nào khi chúng ta nghĩ tới đúng hoàn cảnh thực tế cần sử dụng. Bạn đã bao giờ gặp tình huống mà bạn khó có thể áp dụng một số nguyên tắc ngữ pháp khi bạn đang nói. Có vẻ như còn khó hơn khi bạn sử dụng các nguyên tắc ngữ pháp này vào các cuộc đối thoại thông thường. Đây là một trong những khó khăn cơ bản khi bạn học các nguyên tắc ngữ pháp. Hãy thử tưởng tượng rằng những người nói không phải là người bản địa nói chuyện với một người bạn Mỹ. Anh ta sẽ hỏi cô ấy về việc có định kết hôn sớm hay không? Não anh ấy sẽ buộc phải đi từng bước sau:

– Để diễn đạt được câu hỏi về kế hoạch của một người trong tương lai gần, anh ấy nên sử dụng cấu trúc : TO BE + SUBJECT + GOING TO + VERB INFINITIVE + OBJECT
– HE là đại từ ngôi thứ 3 số ít
– Cấu thành của TO BE và HE lại là IS
– Với một loạt các nguyên tắc trên, chúng ta nên hỏi : IS HE GOING TO MARRY YOU?

Rõ ràng là quá nhiều dữ liệu cần sử lý trong quá trình này khi anh ấy định nói. Như bạn đoán đấy, anh ấy có vẻ như rất lắp bắp với câu nói của mình. Và kể cả người bạn của anh ấy cũng khó mà nhẫn để tiếp tục cuộc nói chuyện. Và điều này có xảy ra với bạn không? Vấn đề này không chỉ xảy ra khi bạn nói tiếng anh mà cả khi bạn nghe tiếng anh cũng vậy. Nếu bạn thấy mất quá nhiều thời gian để xử lý ý nghĩa của cấu trúc ngữ pháp mà người nói đang sử dụng, bạn cũng chẳng đủ thời gian để bắt hết cả câu nói đâu.

Vậy, chúng ta nên làm gì để đối mặt với vấn đề này? Liệu chúng ta có nhớ nổi các vấn đề “nhận diện từ vựng” và ‘sử dụng từ ngữ” ở chương 7 không? Vấn đề này cũng dễ phải không? Bạn có thể sử dụng cách này hay cách khác để học ngoại ngữ – kể cả bạn học ngữ pháp hay không học ngữ pháp. Nhưng biết và hiểu ngữ pháp không có nghĩa là bạn có thể sử dụng chúng thành thạo đâu. Với trường phái đầu tiên, học ngữ pháp từ từ không theo một nguyên tắc nào cả giúp bạn không phải nghĩ quá nhiều khi nói. Bạn sẽ nhanh chóng lựa chọn được từ vựng bạn muốn. Nhưng vấn đề là làm thể nào giảm tải được lượng kiến thức bạn phải nhớ quá nhiều khi bạn học thuộc lòng từ vựng. Hoặc làm thế nào để đơn giản các quá trình phức tạp nếu bạn nhớ hoặc phải sử dụng các nguyên tắc ngữ pháp? Đây không phải câu hỏi dễ trả lời. Ở những trang tiếp theo, tôi sẽ chia sẻ tới bạn kinh nghiệm của tôi nhé. Tôi biết đây không phải là một kinh nghiệm hoàn hảo, nhưng nó có thể giúp bạn tận dụng được cả hai hướng tiếp cận trên.
HỌC NGỮ PHÁP THEO CÁCH DỄ NHẤT NHÉ?

Đừng cố gắng để nhớ cả đống các nguyên tắc ngữ pháp làm gì, hãy nhớ những ví dụ đơn giản thôi:

Tôi sẽ lấy cho bạn một ví dụ khi tôi học tiếng anh. Một trong những cấu trúc ngữ pháp khi tôi học tiếng anh, khiến tôi cảm thấy bối rối là 3 DẠNG CÂU ĐIỀU KIỆN. Mệnh đề IF và mệnh đề kết quả sử dụng các thời khác nhau và chúng chia từ loại 1, 2 đến loại 3. Mỗi loại câu điều kiện lại có ý nghĩa khác nhau. Tôi không chỉ phải nhớ cách thức sử dụng dạng động từ đúng trong hai mệnh đề trên mà còn phải nhớ đó là câu điều kiện loại mấy để áp dụng vào 1 tình huống cụ thể.

Không dễ phải không?

Vậy ý tôi ở trên là “ví dụ đơn giản” đó. Hãy lấy ví dụ ở một câu điều kiện đơn giản: một trong 3 câu điều kiện có nguyên tắc sau:

(if clause) If + subject + had + verb in present perfect tense + object,
(main clause) subject + would have + verb in present perfect tense + object

Thành thực mà nói, tôi sẽ mất cả phút để sử dụng một câu trúc tương tự trong một cuộc đối thoại. Giờ tôi sẽ sử dụng một ví dụ đơn giản hơn, nó đơn giản chỉ là

If you had done this, you would have done that

Trước hết, ví dụ trên dễ nhớ hơn là cả một đống cấu trúc loằng ngoằng:ngắn gọn và nhẹ nhàng. Khi tôi muốn ứng dụng cấu trúc này, tôi chỉ nhớ lại ví dụ này trong tích tắc. Và đơn giản là tôi thay thế từ DONE thành động từ tôi cần thôi. Vì động từ DONE ở thời hiện tại hoàn thành, nó giúp tôi nhớ cách sử dụng của các động từ ở dạng tương tự. Tương tự, tôi thay thế YOU, THIS, THAT bằng động từ và tân ngữ cân thiết. Bằng cách này, tôi không phải nghĩ quá nhiều mà vẫn có thể nói được. Hơn nữa, những mẫu câu này vẫn có thể đứng đại diện cho câu điều kiện, do vậy chúng giúp bạn giảm tại việc nhập quá nhiều thông tin mà vẫn có thể sử dụng để học tập. Bạn chỉ cần thực hành nghiêm túc để sử dụng và ứng dụng thôi.

Đừng quan tâm tới mấy cái tên của các luật ngữ pháp làm gì.

Khi các nhà ngôn ngữ học biên soạn ra các cuốn giáo trình ngữ pháp, họ đặt tên cho các nguyên tắc đó đơn giản để người học có thể phân biệt chúng thôi. Tuy nhiên, những cái tên đó quá học thuật, do vậy chúng ta cũng khó có thể nhớ được. Ví dụ như trong tiếng anh, có 3 dạng câu điều kiện: loại 1, loại 2 và loại 3. Và, kể cả khi tôi có nói tiếng anh trôi chảy và sử dụng thành thạo cả 3 câu điều kiện trên thì cũng không thể chính xác thời tôi đang sử dụng đâu. Khi bạn nói, tôi có thể đảm bảo rằng bạn không muốn mất thời gian cố mà nhớ lại một đống các kiến thức nên sử dụng trong tình huống đó. Ý tôi là bạn nên nghĩ tới cái gì đơn giản với một mẫu trong tiếng mẹ đẻ của mình. Hay nói cách khác, bạn hãy tự hỏi mình: làm thế nào tôi có thể diễn đạt 1 cách đơn giản bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của mình. Và để hiểu ngữ pháp được sâu sắc hơn, bạn cần gắn nó với thực tiễn sử dụng. Ví dụ: “ if you had stayed at home, you would have met her.”

Đừng cố gắng dịch “ngữ pháp”

Trong một vài cuốn giáo trình học ngữ pháp, tác giả mang trên mình trách nhiệm để diễn giải lại các cấu trúc ngữ pháp một cách logic và học thuật nhất. Và nó chỉ cho những ai muốn phác thảo hợp đồng =))

Thi thoảng, khi người học ứng dụng cả đống các kiến thức ngữ pháp phức tạp để nói chuyện, họ cố gắng để “dịch” các cấu trúc ngữ pháp đó. Ví dụ, nếu người học tiếng anh đọc và nghe câu “ If I had stayed at home, I would have met her.” Họ cố gắng để dịch câu đó theo thứ tự thế này:

– Câu đó là câu điều kiện loại 3
– Có nghĩa là mệnh đề if và mệnh đề chính là không thực và đã xảy ra ở quá khứ
– Do vậy, người nói thực sự lại không ở nhà và anh ấy đã không gặp cô ấy.

Cả một quá trình này thì có gì sai đâu, nhưng quá cứng nhắc và phức tạp. Nó có thể khiến cho “câu gốc” rối rắm và “giúp người học tẩu hỏa nhập ma”. Ở ví dụ trên, người nói có thể diễn đả cảm xúc hối tiếc. Theo cách khác, anh ấy ước anh ấy có thể ở nhà. Nhưng người học có thể lỡ mất “cảm xúc của mình” nếu anh ấy ứng dụng cả một quá trình ngữ pháp trên. Để tránh lỗi này, khi bạn cố gắng diễn đạt ngữ pháp, hãy tự hỏi “ Ý của người nói là gì?” Liệu cảm xúc của anh ấy có được diễn đạt hết không?” Với những câu hỏi này, bạn sẽ hiểu được thông điệp thực sự của người nói. Khi bạn quá quen với các mẫu trên, không nhất thiết phải kiểm tra sách ngữ pháp đâu J)

Cuối cùng, ngữ pháp chỉ là một loạt các cách sắp xếp và xử lý từ vựng khác nhau so vậy ngữ pháp có thể hiện nhiều ý nghĩa, nội dung và tình huống khác nhau. Bằng việc tiếp nhận lượng kiến thức lớn thông qua đọc và nghe, bạn sẽ làm quen với các cấu trúc ngữ pháp quen thuộc trong các ngữ cảnh khác nhau. Nhờ vậy, bạn sẽ dễ dàng nắm bắt được các cấu trúc đó và hiểu được ý nghĩa thực sự hơn là cố mà nhớ nhé. Cuối cùng, biết các cấu trúc ngữ pháp là một chuyện, sử dụng chúng một cách thành thạo lại là một câu chuyện khác. Bạn cần phải thực hành, thực hành và thực hành đấy.


Add a Comment

Your email address will not be published. Required fields are marked *